giam doc tham

giam doc tham

giam doc tham

giam doc tham

giam doc tham
giam doc tham

Chi tiết

Kiến nghị giám đốc thẩm một vụ án dân sự

Văn phòng luật sư Hà Tuyền trợ giúp pháp lý cho một hộ dân kiến nghị yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm bản án có hiệu lực pháp luật. nội dung cụ thể dưới đây:

BẢN KIẾN NGHỊ

YÊU CẦU XEM XÉT KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM

Kính gửi:   VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO TP.HCM

Văn phòng luật sư Hà Tuyền hoạt động theo giấy phép hoạt động số 41.01.1335/TP-ĐKHĐ do Sở Tư Pháp Tp. Hồ Chí Minh cấp ngày 02/8/2010. Trụ sở hoạt động: 223/3 Bùi Thị Xuấn, P01, Q. Tân Bình, Tp.HCM. Đại diện theo pháp luật: luật sư HÀ NGỌC TUYỀNTrưởng văn phòng.

Văn phòng luật sư chúng tôi nhận được yêu cầu của ông QUÁCH VĂN PHÚC và bà NGUYỄN THỊ SƠN cùng cư trú tại Ấp Ninh Chùa, xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu về việc trợ giúp pháp lý trong việc khiếu nại yêu cầu giám đốc thẩm hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất suốt từ năm 2008 đến nay.

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án do ông Phúc và bà Sơn cung cấp, Văn phòng luật sư chúng tôi nhận thấy Bản án số 05/2017/DS-ST ngày 20-24/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Hồng dân tỉnh bạc liêu và Bản án số 43/2017DS-PT ngày 19/05/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu có nhiều vấn đề sai phạm có căn cứ để đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm các bản án nêu trên:

-  Xác định sai tư cách tố tụng của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

-  Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: sai thẩm quyền giải quyết theo quy định của luật tố tụng dân sự và tố tụng hành chính

-  Kết luận về giao dịch dân sự sai, không dựa trên chứng cứ khách quan

-  Bỏ qua các căn cứ pháp lý quan trọng để xác định về quyền sử dụng đất

Cụ thể như sau:

1. Xác định sai tư cách tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng:

Năm 2008, ông Phúc và bà Sơn khởi kiện đòi đất đã cố cho ông Quách Văn Lực và bà Phạm Thị Út nên xác định người bị kiện là ông Lực và bà Út. Quá trình giải quyết vụ kiện, ông Lực và bà Út không thừa nhận việc nhận cố đất cố đất mà cho rằng ông Phúc và bà Sơn chuyển nhượng cho bà Quách Kim Huyền và ông Trần Thanh Dũng (con và con rể của ông Lực), bà Huyền và ông Dũng đang sử dụng đất tại thời diểm tranh chấp. Do vậy năm 2009, ông Phúc bà Sơn đã thay đổi nội dung khởi kiện là kiện đòi đất từ bà Quách Kim Huyền và ông Trần Thanh Dũng kèm theo yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho bà Huyền và ông Dũng.

Tại quyết định giám đốc thẩm số 490/2014/DS-GĐT ngày 08/2/2014, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định chưa có cơ sở để xác định có các giao dịch cố đất hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này ông Quách Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Sơn đã khởi kiện đòi đất đang được bà Quách Kim Huyền và ông Trần Thanh Dũng đang quản lý sử dụng thì Tòa án phải xác định tư cách bị đơn trong vụ kiện này chính là bà Quách Kim Huyền và ông Trần Thanh Dũng. Còn ông Quách Văn Lực và bà Phạm Thị Út chỉ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 20-24/01/2017, và bản án phúc thẩm số 43/2017/DS-PT ngày 19/05/2017, Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân và Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu vẫn Ông Quách Văn Lực và bà Phạm Thị Út là bị đơn, còn Ông Trần Thanh Dũng và bà Quách Thị Huyền (Tên gọi khác là Quách Kim Huyền là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Việc xác định tư cách tố tụng như trên là sai dẫn đến hậu quả là nhận định sai về tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, từ đó đánh giá bản chất giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, cũng như trách nhiệm dân sự của các bên liên quan như quyết định giám đốc thẩm số 490/2014/DS-GĐT ngày 08/12/2014 của Tòa án nhân dân tố cao đã nêu ra.

2. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án :

Theo nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Phúc và bà Sơn có yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ số H437076 số vào sổ 3208 do Ủy ban nhân dân huyện Hồng Dân cấp ngày 07/8/1997 cho bà Quách Kim Huyền. đồng thời phía bà Huyền và ông Dũng cũng có yêu cầu độc lập yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ số F0244043 do UBND huyện Hồng Dân cấp cho ông Quách Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Sơn ngày 01/01/1996 theo quyết định số 174/QĐ-UB ngày 29/6/1994. Đây là các quyết định hành chính cá biệt, việc hủy quyết định hành chính này phải được giải quyết theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì thủ tục tố tụng của vụ án này được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Căn cứ vào Khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và Khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính 2015 (có hiệu lực 01/07/2016) thì thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp đương sự có yêu cầu xem xét việc hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức là của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.  Do vậy Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân vẫn giải quyết vụ kiện và tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện Hồng Dân cấp cho ông Phúc và bà Sơn là sai về thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện. Đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu cũng không xem xét đến vi phạm thủ tục tố tụng sai thẩm quyền của Tòa cấp sơ thẩm để tuyên hủy bản án để chuyển đến tòa án có thẩm quyền, do vậy bản án phúc thẩm cũng sai sót, cũng là vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng.

3. Kết luận về quan hệ giao dịch dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có căn cứ:

   Tại bản án sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 20-24/01/2017 của Tòa án Nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và bản án phúc thẩm số 43/2017/DS-PT ngày 19/05/2017, Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân và Tòa án nhân dân Tỉnh Bạc Liêu chỉ dựa vào lời khai một số nhân chứng xác định giá chuyển nhượng đất vào thời điểm năm 1994 là 03 chỉ vàng 24k /1 công tầm cấy để cho rằng lời khai ông Dũng và bà Huyền là phù hợp, từ đó xác định ông Phúc và bà Sơn đã chuyển nhượng đất cho cho bà Huyền ông Dũng vào năm 1994.

Kết luận này của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân và Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu là thiếu căn cứ, suy luận chủ quan, không dựa vào tài liệu chứng cứ. Bởi các lý do sau:

- Bà Huyền và ông Dũng cho rằng đất nhận chuyển nhượng từ ông Phúc và bà Sơn nhưng hoàn toàn không có chứng cứ nào để chứng minh có giao dịch chuyển nhượng đất.

- Chứng cứ bà Huyền đưa ra là đơn xin chuyển nhượng ruộng đất đề ngày 21/01/1994 có nhiều cơ sở để bác bỏ tính khách quan:

+ Chữ viết không phải là chữ của ông Phúc bà Sơn mà bà Huyền xác nhận do bà Huyền viết ra.

+ Chữ ký tên ông Quách Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Sơn là bên chuyển nhượng đất thì cả ông Phúc và bà Sơn đều khẳng định không phải chữ ký của mình. Kết quả giám định của Phân viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận không đủ cơ sở kể kết luận.

+ Nhân chứng 1 tên Trương Minh Trường: ông Trương Minh Trường đã khẳng định không phải chữ ký ông Trường trên đơn xin chuyển nhượng đất, ông Trường không biết có giao dịch chuyển nhượng đất, tại thời điểm năm 1994 ông Phúc và bà Sơn đi làm thuê ở Cà Mau không có mặt ở địa phương.

+ Nhân chứng 2 tên Trương Công Nhâm: ông Trương Công Nhâm xác định không chứng kiến và hiểu biết về giao dịch chuyển nhượng giữa ông Phúc và bà Huyền, do có người mang đến nhà nhờ ký tên nhưng lâu rồi nên không nhớ là ai.

+ Ông Nguyễn Hoàng Ân (trưởng ban nhân dân ấp có xác nhận ngày 25/1/1994) khai: bà Huyền (về sau khai không nhớ ai) mang đơn đến nhà nhờ ông Ân xác nhận, ông Ân xem thấy có chữ ký ông Phúc, bà Sơn, bà Huyền, và nhân chứng là ông Trường, ông Nhâm nên mới ký xác nhận đại diện cho chánh quyền ấp Ninh Chùa. Còn sự thật có sang nhựợng hay không, có nhận tiền vàng hay không thì ông Ân khẳng định không chứng kiến, không thấy.

+ Ông Phạm Thanh Tâm (có chữ ký xác nhận có đóng dấu ủy ban nhân dân xã Ninh Quới ngày 28/5/1994) khai: không nhớ có ông Phúc hay không, không nhớ ai đem đến nhờ xác nhận. Do thấy có đầy đủ các chữ ký hai bên, chữ ký nhân chứng và chữ ký ông Ân trưởng ấp nêm mới ký xác nhận.

 Đối chiếu ngày viết đơn là 21/01/1994, ngày ông Nguyễn Hoàng Ân xác nhận là 25/01/1994, ngày ông Phạm Thanh Tâm xác nhận là 28/5/1994 cũng như lời khai của nhân chứng, kết luận giám định không có cơ sở để xác định đơn xin chuyển nhượng ruộng đất này là do ông Phúc và bà Sơn ký chuyển nhượng đất, có dấu hiệu giả tạo chứng cứ. Không có cơ sở xác định giao dịch chuyển nhượng đất là có thật.

-  Đơn xin giao đất khác do bà Huyền giao nộp đề ngày 08/01/1984 có nội dung ông Quách Văn Phúc giao đất cho bà Huyền nhưng là do chữ bà Huyền viết, chữ ký cũng không giống chữ ký trong giấy đơn xin chuyển nhượng đất ngày 21/01/1994, bà Huyền cũng không chứng minh được là giao dịch gì, giao đất nào. Do vậy, cũng không có cơ sở để xác định là tài liệu do ông Phúc ký liên quan đến đất tranh chấp.

-  Giá chuyển nhượng hay giá cầm cố là do các bên thỏa thuận với nhau, không thể chỉ dựa duy nhất vào chi tiết lời khai bà Huyền và ông Dũng về giá chuyển nhượng phù hợp với lời khai một số nhân chứng về giá đất tại thời điểm 1994 để kết luận là có giao dịch chuyển nhượng đất giữa hai bên. Kết luận này là chủ quan, duy ý chí , hết sức ấu trĩ và hơn nữa là trái ngược với những chứng cứ pháp lý khác về quyền sử dụng đất. Mặt khác, giao dịch chuyển nhượng này nếu có thì cũng bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.

4. Tòa án bỏ qua các chứng cứ pháp lý quan trọng chứng minh về quyền sử dụng đất của ông Phúc và bà Sơn:

Nguồn gốc đất tranh chấp trước thời điểm năm 1994 thuộc quyền sử dụng của ông Phúc và bà Sơn.

Căn cứ công văn 04/PTNMT ngày 28/9/2009 của Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Hồng Dân và công văn số 07/UBND ngày 13/01/2011 của UBND huyện Hồng Dân và lời khai ông Lê Thanh Cường đại diện ủy quyền của chủ tịch UBND huyện Hồng Dân xác định :

-  Ông Quách Văn Phúc có làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất các thửa 679, 435, 637, 539 tờ bản đồ số 3 tọa lạc tại ấp Ninh Chùa, xã Ninh Quới (nay là Ninh Quới A) huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu với tổng diện tích 16.625m2. Đã được UBND huyện Hồng Dân duyệt cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quyết định số 174/QĐ-UB ngày 29/6/1994 của UBND huyện Hồng Dân, giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp ký ngày 01/01/1996. Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Quách Văn Phúc là đúng quy định pháp luật.

-  Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Hồng Dân ký ngày 07/8/1997 cấp cho bà Quách Kim Huyền đối với các thửa đất số 679, 435, 539 tờ bản đồ số 3 (thửa 384) có diện tích 6.125m2 theo quyết định số 174/QĐ ngày 29/6/1994 không có hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất. UBND huyện Hồng Dân xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho bà Quách Kim Huyền là sai quy định pháp luật.

Với những cơ sở pháp lý về quyền sử dụng đất nêu trên khẳng định ông Quách Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Sơn có quyền sở hữu hợp pháp đối với các thửa đất 679, 435, 637, 539 tờ bản đồ số 3 tọa lạc tại ấp Ninh Chùa xã Ninh Quới đang có tranh chấp.

Điều này cũng bác bỏ lời khai bà Huyền và ông Dũng rằng ông Phúc và bà Sơn đã ký chuyển nhượng đất nêu trên có bà Huyền và ông Dũng vào ngày 21/01/1994. Nếu đã chuyển nhượng rồi tại sao UBND huyện ban hành Quyết định 174/QĐ_UB ngày 29/6/1994 duyệt chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quách Văn Phúc, bà Nguyễn Thị Sơn và đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Phúc, bà Sơn vào ngày 01/01/1996 nhưng bà Huyền lại không có phản ứng gì. Trái lại, Bà Huyền lại dựa vào QĐ 174/QĐ_UB ngày 29/6/1994 (công nhận QSDĐ của ông Phúc, bà Sơn) để làm giấy chứng nhận QSDĐ không có hồ sơ gốc cho mình với diện tích 6.125m2 (nhỏ hơn nhiều so với diện tích tranh chấp), chồng lên đất đã cấp cho ông Phúc và bà Sơn. Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên bà Quách Kim Huyền không có hồ sơ gốc, cấp sai quy định pháp luật cần phải được thu hồi và hủy bỏ theo quy định của pháp luật.

5. Cơ sở về việc sử dụng đất của bà Quách Kim Huyền:

Tòa án hai cấp cho rằng bà Quách Kim Huyền sử dụng đất từ năm 1994 đến năm 2008, ông Phúc và bà Sơn biết nhưng không có phản ứng gì. Ông Phúc và bà Sơn khai nhận năm 1992 do thiếu nợ ông Quách Văn Lực 31,5 chỉ vàng 24k nên đã cấm cố đất cho ông Lực để đi làm thuê kiếm tiền trả nợ. Việc cầm cố này ông Phúc không cung cấp được giấy tờ (do bị thất lạc) nhưng có nhiều người làm chứng đã xác nhận:

+ Ông Trần Hoàng Dư khai ngày 01/4/2017: vào năm 1992 ông Quách Văn Phúc có cầm cố đất ruộng cho bà Phan Thị Út vợ ông Quách Văn Lực ở ấp Ninh Chùa, vợ chồng ông Phúc đi Cà Mau làm ăn. Ông Quách văn Tự là anh em bà con của ông Phúc đến yêu cầu chính quyềnđòi lấy đất ông Phúc cầm cố. Ông Dư lúc đó là trưởng ban tài chính ấp cùng ông Nguyễn Hoàng Ân là trưởng ban nhân dân ấp khuyên là đất do vợ chồng ông Phúc cầm cố, chờ vợ chồng ông Phúc về mới giải quyết được. Sau khi thưa kiện vào năm 2008 thì ông Dư mới biết bà Quách Kim Huyền sang đất của ông Phúc

+ Bà Nguyễn Thị Là khai ngày 6/4/2017: vào năm 1992 ông Phúc bà Sơn có cố đất cho ông Lực và bà Phan Thị Út để trừ nợ, không phải là sang bán đất cho bà Huyền, lúc đó bà Huyền còn con gái chưa lập gia đình. Về sau khi xảy ra thưa kiện thì bà Là mới nghe nói đến việc sang nhượng đất.

+ Ông Nguyễn Văn Hùng khai ngày 05/4/2017: vào năm 1992 ông Phúc đi Cà Mau làm mướn, khi đi có cố đất cho bà Phan Thị Út để trừ nợ, đừng để lời. Ông Phúc thiếu nợ bà Út chứ không phải sang cho cô Huyền.

+ Ông Trịnh Việt Thắng xác nhận ngày 13/4/2017 là ông Phúc và bà Sơn đến làm mướn cho ông Thắng từ 1992 đến 1996 không bỏ đi nơi khác.

+ Ông Nguyễn Hoàng Ân khai ngày 21/6/2010: tôi hiểu biết vào năm 1992 ông bà Quách Văn Phúc cầm cố đất cho bà Phan Thị Út vợ ông Quách Văn Lực

Căn cứ các lời khai nhân chứng trên là phù hợp với lời khai ông Phúc và bà Sơn về việc cầm cố đất cho ông Lực và bà Út. Bà Huyền là con ruột của ông Lực và bà Út nên có cơ sở để nhận định rằng ông Lực và bà Út giao đất nhận cầm cố cho bà Huyền và ông Dũng canh tác là hợp lý vì bà Huyền và ông Dũng không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh mình có quyền sử dụng đất hay nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất như phân tích ở trên.

Việc xác định giao dịch có cầm cố này là cơ sở để giải quyết quyền lợi liên quan đến 31,5 chỉ vàng theo yêu cầu của ông Phúc và bà Sơn là hoàn trả cho ông Lực và bà Út.

Dựa trên những phân tích nêu trên, Văn phòng luật sư Hà Tuyền nhận thấy Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân và Tòa án nhân dân Tỉnh Bạc Liêu đã vi phạm tố tụng và áp dụng sai pháp luật, không khách quan khi xem xét đánh giá chứng cứ, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của ông Quách Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Sơn. Chính vì vậy chúng tôi làm bản kiến nghị này kính đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Tp.Hồ Chí Minh là người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị xem xét ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 20-24/01/2017 của Tòa án Nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và bản án phúc thẩm số 43/2017/DS-PT ngày 19/05/2017 của Tòa án Nhân dân tỉnh Bạc Liêu để giải quyết lại vụ án một cách khách quan, đúng quy định pháp luật.

Xin trân trọng kính chào.

 

Người kiến nghị

Trưởng văn phòng luật sư Hà Tuyền

trang web Chính phủ
đoàn luật sư Tp.Hồ Chí Minh
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Bộ tư pháp
cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia
backtop